Hà Nội có tuyến phố mang tên thầy thuốc Phạm Khắc Quảng

Hôm nay (ngày 22/3), tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Y tế tham dự Lễ gắn biển tuyến phố Phạm Khắc Quảng tại phường Giang Biên, quận Long Biên, Hà Nội.

 

GS.TS Nguyễn Thanh Long, Bộ trưởng Bộ Y tế bày tỏ niềm vinh hạnh khi được về đây làm lễ chính thức gắn tên Phố Phạm Khắc Quảng. “Đây là niềm tự hào của ngành y nói chung và chuyên ngành lao và bệnh phổi nói riêng, là một việc làm có ý nghĩa nhân văn và giá trị giáo dục truyền thống lịch sử ngành sâu sắc cho các thế hệ thầy thuốc luôn phấn đấu tận tụy, hết mình vì người bệnh nghèo, vì sức khỏe của nhân dân. Chúng tôi, những thế hệ kế tiếp nguyện đem hết sức mình để tô thêm những nét son vào truyền thống ngành y Việt Nam trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân”, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long nhấn mạnh.

GS.TS Nguyễn Thanh Long, Bộ trưởng Bộ Y tế.

Tuyến phố Phạm Khắc Quảng thuộc phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội được đặt tên thực hiện theo Quyết định số 5725/QĐ-UBND ngày 29/12/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc đặt tên và điều chỉnh độ dài một số đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là một trong những tuyến phố đẹp thuộc quận Long Biên. Buổi lễ được long trọng tổ chức do UBND quận Long Biên và Bệnh viện Phổi Trung ương phối hợp thực hiện.

GS Phạm Khắc Quảng (1912- 2000) nguyên quán tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là người học trò kế tục xuất sắc sự nghiệp của BS Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế đầu tiên và Viện trưởng Viện chống lao đầu tiên, nay là Bệnh viện Phổi Trung ương. GS Phạm Khắc Quảng là Viện trưởng kế tiếp Viện chống lao và là Chủ nhiệm Bộ môn Lao trường Đại học Y Hà Nội, Chủ tịch Hội chống lao nay là Hội Phổi Việt Nam.

Trong cuộc đời sự nghiệp của mình, ông đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc thông qua hoạt động Mặt trận Tổ quốc với 40 năm làm Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phó chủ tịch rồi Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội từ năm 1955 đến 1994. Giáo sư là Ủy viên của Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; Ủy ban đoàn kết với các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh; Ủy ban đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước.

Các đại biểu thực hiện nghi lễ gắn biển phố Phạm Khắc Quảng.

Năm 1940, sau khi đỗ bác sĩ, ông làm phụ giảng tại Trường Đại học Y Dược khoa Hà Nội. Năm 1951, ngụy quyền yêu cầu gia nhập vào quân y, nhưng ông kiên quyết từ chối, chỉ làm việc chữa bệnh cho người bị bệnh lao ở Bệnh viện Bạch Mai. Tại đây, BS. Phạm Khắc Quảng đã vận động các nhà từ thiện giúp đỡ xây dựng thêm 2 căn nhà để có thêm một số giường bệnh cho nhiều bệnh nhân chữa bệnh lao. Khi Hà Nội tạm chiếm ông là nhân sĩ yêu nước, tích cực tham gia các công việc xã hội. Phòng khám bệnh tư của ông ở phố Tràng Thi là nơi gặp mặt của các trí thức thủ đô hướng về kháng chiến. Ông đã tích cực giúp đỡ cán bộ ta hoạt động bí mật trong nội thành, vận động quyên góp thuốc và dụng cụ y tế gửi cho kháng chiến. Ông đã cùng nhóm trí thức cho ra tờ báo “Công luận” với lập trường đòi lập lại hoà bình ở Việt Nam. Năm 1955, GS. Phạm Khắc Quảng có căn nhà số 12 Bà Huyện Thanh Quan đã đổi cho Chính phủ làm Đại sứ quán và ông nhận nhà ở nơi khác.

Giáo sư Phạm Khắc Quảng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập Hạng nhì, Huy chương kháng chiến chống Pháp Hạng nhất, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Lao động Hạng ba. Năm 2006, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc và năm 2012, Bộ Y tế truy tặng Giải thưởng Phạm Ngọc Thạch về công tác phòng chống lao và bệnh phổi, Nhà giáo nhân dân năm 1990.

Trải qua nhiều năm công tác, trên nhiều cương vị, ông luôn đem hết khả năng, thời gian và công sức để chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và viết sách. Giáo sư đã tham gia đào tạo hàng nghìn thầy thuốc, bác sĩ, bác sĩ chuyên khoa I, II thạc sĩ, tiến sĩ y học. Giáo sư là người thầy, người anh cả của nhiều thế hệ thầy thuốc chuyên khoa lao và bệnh phổi. Hơn 50 năm gắn bó với nghề, ông đã có nhiều công trình khoa học. Nổi bật nhất “Chương trình chống lao 10 điểm” của ông đã được áp dụng từ những năm 1976 đã góp phần quan trọng vào việc phòng chống lao ở nước ta./.

PV

 

Bình luận

    Chưa có bình luận